Kỹ năng

BỒI DƯỠNG – RÈN LUYỆN KỸ NĂNG DẠY HỌC 
MỘT VẤN ĐỀ THÚ VỊ

Thạc sĩ Đặng Việt Phú - Trưởng phòng GD-ĐT


             Sự nghiệp phát triển Kinh tế -Xã hội của mỗi Quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển của Giáo dục– Đào tạo. Nhận thức rõ vai trò của Giáo dục– Đào tạo Nghị quyết TW 2 – Khoá 8- Đảng cộng sản Việt Nam đã định hướng quan điểm giáo dục là Quốc sách hàng đầu. Để phát triển sự nghiệp Giáo dục – Đào tạo thì yếu tố quan trọng là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Ngày 15/6/2004 Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Chỉ thị 40/CT-TW về “ Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”, chỉ thị đã chỉ rõ: mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
           Thực hiện chỉ thị của Đảng ngày 11/01/2005 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 09/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án “Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005-2010”. Các văn bản của Đảng và Chính phủ Việt Nam đều xác định rõ "Đội ngũ chính là yếu tố quyết định mọi hoạt động GD trong nhà trường, việc Bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức và kĩ năng dạy học cho giáo viên các trường phổ thông là công việc thường xuyên và cấp thiết để nâng cao chất lượng GD-ĐT". 
          Ngày 11 tháng 3 năm 2004 Sở Giáo dục và Đào tạo Tỉnh Vĩnh Phúc ra công văn số 204/ĐTBD về việc Triển khai xây dựng nhà trường là trung tâm bồi dưỡng giáo viên với yêu cầu : Xây dựng mỗi trường học là trung tâm bồi dưỡng giáo viên, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cán bộ, giáo viên nhà trường có thể học tập liên tục, học tập suốt đời, không ngừng bổ sung hoàn thiện và nâng cao trình độ năng lực công tác, kĩ năng nghề nghiệp, thích ứng được những thay đổi trong nghề nghiệp. 
          Để xây dựng được một đội ngũ giáo viên có chất lượng đòi hỏi phải tích hợp rất nhiều yếu tố: chất lượng đào tạo ở các trường sư phạm, tuyển dụng, đạo đức nghề nghiệp, tài chính, kiến thức bộ môn, các kĩ năng dạy học… trong đó vấn đề kĩ năng sư phạm của nhà giáo, các kĩ năng dạy học hiện đang là vấn đề rất cần được quan tâm và cũng đã được chỉ rõ trong các văn bản của Đảng, Chính phủ Việt Nam, Bộ giáo dục Việt Nam.
            Là người làm công tác quản lí giáo dục,tôi nhận thức sâu sắc về vấn đề năng lực dạy học của giáo viên có ảnh hưởng như thế nào tới chất lượng và hiểu rõ thực trạng đội ngũ hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu, còn nhiều giáo viên yếu kém về trình độ chuyên môn, kĩ năng dạy học...Trong rất nhiều yếu tố tạo nên chất lượng đội ngũ tôi nhận thấy vấn đề kĩ năng giảng dạy hiện nay đang là vấn đề còn rất nhiều hạn chế ở nhiều giáo viên, giáo viên có kiến thức bộ môn tốt nhưng hạn chế về kĩ năng dạy học, lúng túng khi vận dụng các phương pháp nên không thể đem lại hiệu quả giờ dạy. Việc thành thạo các kĩ năng dạy học sẽ giúp cho giáo viên tự tin hơn và sẽ có kết quả dạy học tốt hơn. 
         Qua thực tế quản lý lâu năm tại nhà trường, tôi nhận thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế trong kết quả học tập của học sinh như năng lực học tập, cơ sở vật chất, sự hợp lí của chương trình giáo dục...Tuy nhiên, nguyên nhân cơ bản nhất, và nghiêm trọng nhất mà nhà trường đang phải đối mặt hiện nay là vấn đề kỹ năng dạy học của giáo viên. 
Trong thực tế nhà trường hiện này, còn một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được các yêu cầu về giảng dạy, còn yếu về việc thực hiện các kĩ năng dạy học : Khả năng giao tiếp, thích ứng với các đối tượng học sinh, việc vận dụng thành thạo các phương pháp dạy học, kĩ năng sử dụng thiết bị dạy học, kĩ năng tổ chức làm việc nhóm… Những hạn chế này có nguồn gốc sâu xa từ việc không được đào tạo tốt trong các trường sư phạm; Nếu không được tiếp tục đào tạo, thường xuyên bồi dưỡng rèn luyện trong quá trình hành nghề thì người giáo viên không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. 
          Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề tìm giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ, nhưng khía cạnh kĩ năng dạy học là vấn đề không mới lạ nhưng lại ít được chú ý đến. Trong giáo dục Việt Nam gần đây tập trung quan tâm rất nhiều vào các vấn đề đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học, đầu tư về trang thiết bị…nhưng vấn đề rất cần thiết, rất cụ thể là làm sao để người giáo viên có đủ các kĩ năng để thực hiện việc dạy học lại chưa được quan tâm nhiều, chưa có nhiều công trình nghiên cứu sâu và phổ biến về vấn đề này, thậm chí ở nhiều trường Sư phạm còn chưa có giáo trình chuyên sâu về vấn đề kĩ năng dạy học. Một số kĩ năng dạy học mới: Tổ chức làm việc nhóm, ứng dụng CNTT…còn mới lạ với nhiều GV nhất là số giáo viên đã được đào tạo từ những năm 80-90. 
          Trong phạm vi bài viết này tôi muốn chia sẻ với các thầy cô giáo, các nhà quản lí giáo dục một chút về vấn đề kĩ năng dạt học và việc làm thế nào để rèn kĩ năng dạy học

      
      
 I- Một số khái niệm cơ sở 
       1. Định nghĩa về kỹ năng và năng lực dạy học

        Theo tác giả Phạm Tất Dong :" Năng lực là sự tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt được những kết quả cao" (Phạm Tất Dong, Giúp bạn chọn nghề, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1989, trang 72.)
        Từ khái niệm trên chúng ta có thể định nghĩa năng lực nghề nghiệp như sau: Năng lực nghề nghiệp là sự tương ứng giữa những thuộc tính tâm, sinh lý của con người với những yêu cầu do nghề nghiệp đặt ra. Nếu không có sự tương ứng này thì con người không thể theo đuổi nghề được, ở mỗi một nghề nghiệp khác nhau sẽ có những yêu cầu cụ thể khác nhau, nhưng tựu trung lại thì năng lực nghề nghiệp được cấu thành bởi 3 thành tố sau :


          +Tri thức chuyên môn
          + Kỹ năng hành nghề
          + Thái độ đối với nghề
         Năng lực nói chung và năng lực nghề nghiệp nói riêng không có sẵn mà nó được hình thành và phát triển qua hoạt động học tập, lao động và trong hoạt động nghề nghiệp. Chúng ta có thể khẳng định rằng học hỏi và lao động không mệt mỏi là con đường phát triển năng lực nghề nghiệp của mỗi cá nhân.
Trong phạm vi bài viết này tôi hiểu rằng kĩ năng hành nghề là một trong 3 bộ phận cấu thành nên năng lực nghề nghiệp. Cụ thể hơn Đối với nghề dạy học thì Kĩ năng dạy học là 1 trong 3 bộ phận để cấu thành nên năng lực dạy học.
Theo tác giả Trần Bá Hoành, " Vấn đề giáo viên - Những nghiên cứu và lí luận thực tiễn", năng lực của mỗi cá nhân được cấu thành từ ba bộ phận cơ bản : Tri thức về lĩnh vực hoạt động ( Năng lực biết); Kĩ năng tiến hành hoạt động ( Năng lực làm); và Những điều kiện tâm lí để tổ chức và thực hiện tri thức, kĩ năng đó trong một cơ cấu thống nhất và có định hướng rõ ràng (Năng lực biểu cảm). Theo cách hiểu này thì Kĩ năng dạy học là bộ phận để tạo nên năng lực dạy học của người giáo viên.
          Năng lực là một đặc trưng cá thể, một tiêu chí phân biệt cá nhân này với cá nhân khác trong cùng một hoạt động. Mỗi kĩ năng chỉ có ý nghĩa khi gắn nó với việc thực hiện một nội dung hoạt động cụ thể nhằm đạt tới mục tiêu cụ thể. “Kĩ năng là kết quả của sự tập hợp những kiến thức đã có và những thói quen, kinh nghiệm trong cùng một lĩnh vực hoạt động sống của cá nhân. Năng lực sư phạm gắn liền với hoạt động sư phạm được hình thành và phát triển trong quá trình rèn luyện của người giáo viên . Vai trò nền tảng của quá trình đào tạo trong trường Sư phạm gắn liền với nỗ lực tự học, tự bồi dưỡng liên tục bền bỉ của người giáo viên trong những năm tháng hành nghề. Kĩ năng sư phạm chỉ có thể hình thành bằng cách luyện tập, tạo ra năng lực thực hiện các hành động sư phạm không chỉ trong những điều kiện quen thuộc mà còn cả trong những điều kiện thay đổi. Kĩ năng dạy học cơ bản là những dạng chuyên biệt của năng lực thực hiện của cá nhân trong việc giải quyết các nhiệm vụ dạy học hoặc năng lực tiến hành hoạt động dạy học. Người giáo viên cần phải được đặt trong một điều kiện, môi trường thuận lợi để có cơ hội hình thành và rèn luyện các kĩ năng cần thiết cho công việc của họ, mà đó chính là vấn đề mà người quản lí cần quan tâm.
       Ở đây cần phải nhấn mạnh thêm một yếu tố cần thiết để tạo nên kĩ năng dạy học của người giáo viên chính là yếu tố kinh nghiệm. Những kinh nghiệm từ thực tế công việc cộng với một nền tri thức vững vàng sẽ giúp người giáo viên thuận lợi hơn trong việc thực hiện các kĩ năng dạy học của mình. Như vậy, vấn đề đặt ra đối với các cơ sở đào tạo đặc biệt là các trường Sư phạm nơi đào tạo ra các thầy cô giáo thì việc tổ chức chương trình đào tạo cần căn cứ vào hệ thống năng lực nghề nghiệp, kĩ năng nghề nghiệp mà nghề dạy học đòi hỏi, bằng cách tăng các giờ thực hành, giúp họ tích luỹ kinh nghiệm, có như vậy người sinh viên sau khi ra trường mới có kĩ năng phù hợp đáp ứng được yêu cầu công việc.
         2. Việc đào tạo kỹ năng dạy học tại các trường sư phạm ở Việt Nam
Nhiều nghiên cứu gần đây đã tập trung làm rõ những khó khăn và hạn chế trong hệ thống đào tạo giáo viên tại các trường sư phạm. PGS- TS Biền Văn Minh- ĐHSP- ĐH Huế; Báo GD- TĐ Số đặc biệt cuối tháng 2/2010 đã chỉ ra rằng “Việc hình thành hệ thống kĩ năng sư phạm cho sinh viên vẫn còn bộc lộ những thiếu sót”. Cụ thể:
         * Chương trình đào tạo chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc hình thành các kĩ năng sơ đẳng không phù hợp trước những biến đổi của KHKT, thông tin và công nghệ. Các kĩ năng làm việc với SGK, kĩ năng sử dụng TBDH, kĩ năng tổ chức các hoạt động giảng dạy, kĩ năng giao tiếp, hội nhập, kế hoạch hoá, kiểm tra, tự kiểm tra, đánh giá, tự đánh giá … chưa được chú trọng 
         * Đội ngũ giảng viên dạy NVSP còn thiếu hiểu biết thực tế phổ thông. Chưa xây dựng được đề cương bài giảng một cách có hệ thống và phù hợp thực tế để đào tạo đội ngũ GV có năng lực sư phạm vững vàng.
          * Công tác chỉ đạo, giám sát điều hành, kiểm tra, đánh giá các hoạt động có liên quan đến đào tạo NVSP đang gặp rất nhiều khó khăn và chưa thực sự có hiệu quả.
          * Việc tự đào tạo NVSP của SV còn thụ động, chưa sáng tạo trong việc tiếp thu những kiến thức NVSP
          * Điều kiện CSVC cần thiết cho lớp học NVSP còn thiếu. 
         Tháng 1 năm 2010 Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức cuộc hội thảo: Nâng cao chất lượng nghiệp vụ Sư phạm cho sinh viên các trường ĐH sư phạm; Thứ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển đã thừa nhận: vấn đề nghiệp vụ sư phạm chưa được coi trọng đúng mức. Để nâng cao nghiệp vụ sư phạm, các trường cần rà soát lại chương trình đào tạo, đồng thời giảng viên các trường sư phạm cũng cần phải thay đổi. Mô hình trường thực hành cần được nhân rộng để sinh viên có điều kiện hành nghề trước khi trở thành giáo viên. Sản phẩm của các trường sư phạm được đánh giá là “giàu tri thức chuyên môn, nghèo kĩ năng sư phạm”. Đại đa số các chuyên gia đều đồng tình: Việc giảng dạy tại các trường sư phạm hiện nay đều chú trọng năng lực chuyên môn mà chưa chú ý đến nghiệp vụ sư phạm, chương trình mang nặng tính hàn lâm và cung cấp lí luận phương pháp dạy học, chưa gắn với thực tiễn. ( Báo Hà Nội mới- Online; ngày 2/2/2010)
Ở đây tôi nhận thấy một vấn đề nổi cộm là sự phù hợp giữa những gì người giáo viên tương lai đã được chuẩn bị trong các trường Sư phạm với các kiến thức, kĩ năng, thái độ người đó phải có khi hành nghề trong thực tế giáo dục đa dạng. Những khác biệt lớn giữa lí luận sư phạm và thực hành giảng dạy là có thật. 
         3-. Khái niệm về quản lí giáo dục, quản lí nhà trường
        Quản lí giáo dục là sự tác động có ý thức, có mục đích của chủ thể quản lí tới khách thể quản lí nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất. Quản lí giáo dục, quản lí trường học là một chuỗi tác động hợp lí ( có mục đích, có hệ thống, có kế hoach) mang tính tổ chức sư phạm của chủ thể quản lí đến tập thể giáo viên và học sinh, đến những lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. Đối với cấp vĩ mô quản lí giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch , có hệ thống, hợp qui luật) của chủ thể quản lí đến tất cả các mắt xích của hệ thống ( từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là các nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội. Đối với cấp vi mô (Phạm vi nhà trường) quản lí hoạt động giáo dục trong nhà trường bao gồm hệ thống những tác động có hướng đích của Hiệu trưởng đến các hoạt động giáo dục, đến con người ( Giáo viên, cán bộ nhân viên và học sinh) , đến các nguồn lực (Cơ sở vật chất, tài chính, thông tin…), đến các ảnh hưởng ngoài nhà trường. Quản lí nhà trường là yếu tố rất cơ bản và hết sức quan trọng nhằm đảm bảo tổ chức tốt cho công tác giảng dạy, học tập và các công việc khác phải thực hiện trong trường học. 
         4- Quản lí – phát triển nguồn nhân lực trong nhà trường 
        Việc xây dựng tập thể sư phạm nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể để thực hiện tốt nhất mục tiêu của nhà trường. Một tập thể như vậy sẽ là môi trường xã hội tốt đẹp cho việc nâng nguồn nhân lực sư phạm trong nhà trường. Để thực hiện được mục tiêu đó, hiệu trưởng nhà trường cần biết và thực hiện tốt các kỹ năng quản lí như: lập kế hoạch nhân sự, tuyển chọn bổ sung nhân sự, phân công bố trí sử dụng nguồn nhân lực, bồi dưỡng đội ngũ cả về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cũng như phẩm chất nhân cách. Để thực hiện tốt việc bồi dưỡng đội ngũ, hiệu trưởng phải phải là người hiểu rõ hơn ai hết về đội ngũ do mình quản lí để xây dựng một kế hoạch bồi dưỡng cho họ, trên cơ sở những đề xuất của cá nhân cũng như tổ chuyên môn ở cơ sở. Phát triển nhân sự thực chất là làm tăng khả năng hoạt động và thích nghi của đội ngũ GV và viên chức phục vụ sao cho họ có khả năng đáp ứng được những thay đổi cũng như các yêu cầu phát triển của xã hội
         5- Khái niệm kỹ năng
         Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về kĩ năng và đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về nó. Theo từ điển Tâm lí học của tác giả Petrovxki: “Kĩ năng là giai đoạn nắm vững cách hành động dựa trên qui tác nào đó và hành động phù hợp với qui tắc ấy trong quá trình giải quyết nhiệm vụ đã xác định”. Tác giả A.V. Petrovxki cho rằng: “Kĩ năng là cách thức hành động dựa trên cơ sở tổ hợp những tri thức và kĩ xảo. Kĩ năng được hình thành bằng con đường luyện tập tạo khả năng cho con người thực hiện hành động không chỉ trong điều kiện quen thuộc mà ngay cả trong điều kiện thay đổi”. Giảng viên Nguyễn Quốc Vỹ: Kĩ năng là khả năng của con người thực hiện có hiệu quả một công việc để đạt được mục đích đã xác định bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức hành động phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và phương tiện nhất định.
         Các nhà Giáo dục học phân tích kĩ năng thành hai loại; Kĩ năng bậc một và kĩ năng bậc hai. Kĩ năng bậc một là kĩ năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành hành động ấy, cho dù là hành động cụ thể hay hành động trí tuệ. 
        Loại kĩ năng này thông qua luyện tập đến mức hoàn hảo, các thao tác được diễn ra hoàn toàn tự động hoá không cần có sự hiện diện của ý thức hoặc sự tham gia của ý thức rất ít thì biến thành kĩ xảo. Ví dụ như kĩ năng viết, đan len, đi xe đạp...
       Kĩ năng bậc hai là khả năng thực hiện hành động, hoạt động một cách thành thạo, linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với những mục tiêu trong những điều kiện khác nhau. Trong kĩ năng bậc hai yếu tố linh hoạt sáng tạo là yếu tố cơ bản, đó là cơ sở cho mọi hoạt động đạt hiệu quả cao. 
        Để hiểu rõ về khái niệm kĩ năng chúng ta cần phân biệt nó với khái niệm kĩ xảo. Kĩ năng và kĩ xảo đều là cách thức của hành động, là thành phần không thể thiếu của hành động, song giữa chúng có những khác biệt cơ bản như sau:

Bảng 3: So sánh giữa kỹ năng và kỹ xảo 

Một số tiêu chí

Kĩ xảo

Kĩ năng

Độ linh hoạt, sáng tạo

Thấp, máy móc, khuôn mẫu

Cao

Sự tham gia của ý thức

Ý thức được giải phóng

Có sự tham gia của ý thức

Thời gian xuất hiện

Có trước

Có sau

Cơ sở hình thành

Các tri thức và kĩ năng nguyên sinh, luyện tập có ý thức dẫn đến tự động hoá

Các tri thức và kĩ xảo, rèn luyện trong hoạt động có ý thức

Điều kiện hình thành

Trong điều kiện, yêu cầu nhất định không thay đổi

Từng bước phức tạp dần trong những điều kiện khác nhau

        Qua so sánh ở bảng này tôi muốn chúng ta phân biệt rõ sự khác nhau giữa kĩ năng và kĩ xảo. Kĩ năng được hình thành và phát triển là dựa trên cơ sở của tri thức và kĩ xảo. Qua nghiên cứu, tôi đưa ra định nghĩa sau: “Kĩ năng là hệ thống các thao tác, những cách thức hành động phù hợp để thực hiện có kết quả một hoạt động dựa trên những tri thức nhất định”
         6- Khái niệm kĩ năng dạy học
Kĩ năng dạy học là sự thực hiện có kết quả một số thao tác hoặc một hệ thống thao tác phức hợp của một hành động giảng dạy dựa trên tri thức chuyên môn và nghiệp vụ cần thiết vào các tình huống dạy học xác định.
        7- Kĩ năng dạy học trên lớp
        Kĩ năng dạy học trên lớp là hệ thống thực hiện các thao tác kĩ thuật dạy học và giao tiếp của giáo viên một cách có kết quả trong suốt quá trình đứng lớp với những điều kiện cụ thể, trong các tiết học cụ thể dựa trên tri thức chuyên môn và nghiệp vụ nhất định. 

       Kết luận: 
        * Kĩ năng dạy học là vấn đề rất cần thiết, là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng giảng dạy của người giáo viên.
        * Kĩ năng dạy học có thể tiếp tục hình thành, rèn luyện và phát triển trong quá trình dạy học của người giáo viên.
       * Hiệu trưởng với vai trò quản lí của mình có thể sử dụng nhiều giải pháp (Giúp giáo viên hiểu về vai trò của kĩ năng, tạo động lực làm việc cho họ, trang bị về cơ sở vật chất...), tạo ra môi trường, điều kiện để giáo viên rèn luyện, nâng cao kĩ năng dạy học tiến tới giúp họ trở thành người giáo viên có kĩ năng. 
         II- Đề xuất giải pháp
        Kĩ năng dạy học, một bộ pận quan trọng tạo nên năng lực dạy học của người thầy giáo, nó là một hệ thống và được hình thành thông qua quá trình rèn luyện, thông qua thực tế dạy học. Việc thành thạo các kĩ năng dạy học cơ bản sẽ giúp người giáo viên tăng đáng kể hiệu quả dạy học, kỹ năng giảng dạy của giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong kết quả học tập của học sinh và thực tế là một bộ phận lớn giáo viên hiện nay còn có cái nhìn rất mơ hồ, chưa hoàn chỉnh về vấn đề kỹ năng
         Khi nghiên cứu vấn đề này tôi nhận thấy đây là một vấn đề thực sự thú vị và bổ ích, nó giúp tôi nhìn nhận quá trình dạy học một cách toàn diện hơn.
        Tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kỹ năng của giáo viên 
       Phần giải pháp được chia ra làm 6 mục. Với quan điểm, để dẫn đến thay đổi trong hành động ta cần bắt đầu bằng sự thay đổi trong nhận thức, giải pháp đầu tiên nhằm làm rõ vai trò quan trọng của kỹ năng giảng dạy cho giáo viên. Tiếp đó, Hiệu trưởng cần hướng dẫn cho họ phương pháp và cách thức để đạt được những kỹ năng trên bằng việc cung cấp việc bồi dưỡng kỹ năng được trình bày trong giải pháp thứ hai.
        Học cần đi đôi với hành, giải pháp thứ ba cung cấp cho giáo viên những điều kiện và phương tiện để thực hành những kỹ năng họ đã được học. Sang đến giải pháp thứ tư, mỗi Hiệu trưởng cần thiết kế những tiêu chí rõ ràng và cụ thể để đánh giá một giáo viên có kỹ năng. Đây chính là những thước đo chính xác cho việc thực hiện kỹ năng của giáo viên đồng thời là cơ sở để thiết kế chế độ khen thưởng.
       Cuối cùng, hai giải pháp tiếp theo yêu cầu Hiệu trưởng tạo ra một môi trường làm việc thuận lợi cho giáo viên, tạo điều kiện thuận lợi cho họ thực hành kỹ năng giảng dạy đồng thời trở thành một tấm gương trong việc rèn luyện kỹ năng.
        Từng giải pháp trên sẽ được trình bày cụ thể trong các phần nhỏ dưới đây. 
         1. Hiệu trưởng cần phải làm cho giáo viên nhận thức rõ ràng, đầy đủ về kĩ năng dạy học; vai trò của kĩ năng dạy học; làm cho giáo viên có ý thức rèn luyện bồi dưỡng các kĩ năng dạy học trong suốt quá trình hành nghề
         Nhà quản lí có tác động tạo động lực làm việc cho giáo viên, làm cho họ tích cực hưởng ứng đón nhận những thay đổi. Tôi hoàn toàn nhất trí với các quan điểm: để tạo động lực cho nhân viên nhà quản lí cần phải hiểu nhân viên đó đang ở đâu trong hệ thống thứ bậc của nhu cầu (Maslow- from Giáo trình quản trị nhân lực ); cần quan tâm đến các thành tích tốt và thưởng cho các thành tích đó. Mọi người lao động đều bị thúc đẩy bởi suy nghĩ về sự công bằng và ý nghĩ rằng họ bị đối xử thiếu công bằng hơn những người khác sẽ tước bỏ động lực thúc đẩy của họ. Tôi nhất trí quan điểm để làm tốt việc tạo động lực nhà quản lí cần tập trung vào 3 lĩnh vực then chốt 
       + Xác định nhiệm vụ và tiêu chuẩn công việc một cách cụ thể, đánh giá thường xuyên mức độ hoàn thành công việc của nhân viên; 
       + Tạo điều kiện thuận lợi để nhân viên hoàn thành nhiệm vụ thông qua việc loại trừ các trở ngại, cung cấp các điều kiện làm việc và bố trí nhân sự phù hợp; 
       + Kích thích lao động bằng các hình thức khuyến khích tài chính (sử dụng tiền công, tiền lương, tiền thưởng) cũng như các hình thức phi tài chính (khen ngợi, tạo cơ hội phát triển, thăng tiến...). 
       - Phát huy truyền thống văn hoá của nhà trường để mỗi giáo viên đều cảm thấy tự hào với vị trí công việc của mình, với những đóng góp của mình cho thành tích chung của nhà trường từ đó có có ý thức, tích cực trong những thay đổi phát triển chuyên môn 
         Tôi nhất trí với quan điểm: “Những giá trị, niềm tin và hệ tư tưởng là cốt lõi của các tổ chức”. Dựa trên những nền tảng chung và những đặc thù riêng đối với trường học để xây dựng văn hoá riêng cho trường Sự quan tâm tới khía cạnh văn hoá tổ chức sẽ làm “mềm hoá “sự cứng nhắc và những yếu tố thuộc về nghi thức trong mô hình chính thức. Sự thống nhất, gần gũi, gắn kết về văn hoá sẽ giúp các cá nhân trong tổ chức gần nhau hơn, sự hợp tác hiệu quả hơn; sự tác động, chi phối bởi các giá trị, các hành vi văn hoá của nhà quản lí sẽ có tác dụng hơn là bắt ép sự thay đổi thông qua các văn bản pháp lí cứng nhắc.Tôi nhận thấy khi các thành viên trong nhà trường có những giá trị văn hoá, niềm tin gần nhau hơn thì họ sẽ đoàn kết và làm việc hiệu quả, nhà quản lí với sự đồng điệu và có tác động thích hợp thì sẽ dễ ràng hơn cho mục tiêu thay đổi, phát triển của tổ chức của mình. “Tôi tin rằng những người lãnh đạo thành công chú trọng đến việc lãnh đạo dựa trên mối quan hệ con người, một mối quan hệ nhạy cảm đối với nhu cầu của giáo viên và những người khác và có khả năng đóng vai trò như một động lực thúc đẩy họ chấp nhận và thực hiện những thay đổi mong muốn”(Chỉ đạo và phát triển chuyên môn trong nhà trường- John West- Burnham & Furgus O’Sullivan,p22)
         2. Hiệu trưởng cần quan tâm đến việc tổ chức bồi dưỡng kĩ năng dạy học cho giáo viên bằng nhiều hình thức: Bồi dưỡng trực tiếp, thông qua dự giờ đồng nghiệp, thông qua các tài liệu nghiên cứu
         Chúng ta có thể thấy rằng, trong các trường sư phạm hiện nay việc rèn kĩ năng dạy học cho sinh viên không được quan tâm nhiều, ở trường sư phạm cũng không có một tiêu chí kĩ năng dạy học thống nhất, nội dung của các tiêu chí này chủ yếu tập trung vào đánh gía khối kiến thức của người dạy trên 5 phương diện cơ bản của quá trình dạy học là nội dung dạy học, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, tổ chức dạy học và kết quả dạy học; mặt khác mỗi giảng viên sư phạm có một số kĩ năng khác nhau không đồng nhất chính vì vậy sinh viên không xác định được kĩ năng dạy học trên lớp cần học tập, rèn luyện dẫn đến sự mơ hồ, mông lung trong rèn luyện kĩ năng dạy học. 
         Vì vậy, vai trò của Hiệu trưởng ở đây là phải tiếp tục tổ chức học tập cho họ để đảm bảo rằng trong quá trình giảng dạy họ nhanh chóng nắm bắt được và tiến tới thành thạo các kĩ năng dạy học cơ bản. “Nhiều tài liệu và nghiên cứu giáo dục chứng minh quan điểm rằng những giáo viên dạy có hiệu quả tốt nhất là những người học tập tốt và vẫn đang tiếp tục học”  (Day 1987, Hopkins 1994, Middlewood 1998, Stoll 2003; From Bush and Middlewood 2004,p195). Giáo viên phải vừa là một nhà chuyên môn giỏi vừa là một người có kĩ năng thực hành tốt. Tôi nhất trí với quan điểm: “Bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ GV (song song với việc nâng cao chất lượng đào tạo các GV mới ở các trường ĐHSP) để có các thầy giáo, cô giáo giỏi thực sự chính là đòn bẩy để nâng cao chất lượng GD- ĐT!” (Báo Giáo dục Thời đại Chủ nhật số 50 ngày 13/12/2009- Tác giả Đào Ngọc Đệ)
Cuối cùng, “Trường phổ thông phải là một cơ sở bồi dưỡng giáo viên vì “ Học thầy không tầy học bạn”, ở nước ta, trường phổ thông chưa trở thành một đơn vị bồi dưỡng GV và tự bồi dưỡng GV thực sự 
         - Hiệu trưởng cần xây dựng chiến lược học tập, tiến bộ của các cá nhân trong nhà trường với mục đích tạo điều kiện cho cán bộ, giáo viên có điều kiện tiếp tục học tập tích luỹ phát triển các kĩ năng về chuyên môn, nghiệp vụ; nội dung, phương pháp giáo dục hiện đại; liên tục tiếp cận, cập nhật và thích ứng với sự phát triển của khoa học, công nghệ tiên tiến. Xây dựng nhà trường thành trung tâm bồi dưỡng giáo viên, trong đó lấy việc tự học là quan trọng.
Để cải thiện kĩ năng, hiệu trưởng cần thực hiện các công việc cụ thể:
         - Tổ chức các lớp bồi dưỡng các kiến thức về kĩ năng dạy học. – Được thực hiện bởi các giáo viên có kĩ năng dạy học tốt.
         + Khái niệm kĩ năng dạy học
         + Vai trò của kĩ năng dạy học
         + Các kĩ năng dạy học cơ bản.
         + Kĩ năng tổ chức làm việc nhóm…
         - Nhanh chóng giải quyết vấn đề tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực ứng dụng CNTT
         + Gv chưa được trang bị nhiều kiến thức về CNTT: Vai trò của CNTT trong cuộc sống và trong công việc, kĩ năng sử dụng máy tính, kĩ năng khai thác các phần mềm ứng dụng trong giảng dạy..
         + Hệ thống thiết bị máy tính, máy chiếu, các phần mềm được trang bị ít, thiếu nhiều so với yêu cầu
         + Công tác quản lí chưa quan tâm trú trọng nhiều đến việc triển khai ứng dụng CNTT trong nhà trường
         - Tổ chức các Xemina, hội thảo chuyên đề về vấn đề nâng cao, cải thiện kĩ năng dạy học, thực hiện bởi các tổ nhóm chuyên môn đăng kí hàng năm. Thông qua các hoạt động này để giáo viên có điều kiện trao đổi, thảo luận, quan sát, đánh gía lẫn nhau và qua đó mỗi cá nhân có thể hiểu thêm được, tự đánh giá được về những việc mình đang làm, phát huy điểm mạnh, khắc phục những hạn chế để cùng tiến bộ. ( Sự phản ánh)
         + Trong phạm vi toàn trường: Tập trung vào các kĩ năng chung nhất cho tất cả các bộ môn
         + Theo đơn vị bộ môn: Tập trung đi sâu vào các kĩ năng đặc thù bộ môn
         - Tổ chức dự giờ đánh giá rút kinh nghiệm – Thực hiện thường xuyên hàng tuần ở đơn vị tổ, nhóm và thao giảng định kì theo kế hoạch của trường. 
         + Giờ giảng mẫu với đối tượng thực hiện là các Giáo viên giỏi, GV có kĩ năng dạy học thành thạo, nhằm mục đích giúp giáo viên trẻ, giáo viên hạn chế về kĩ năng dạy học dự giờ học tập rút kinh nghiệm.
         + Dự giờ những giáo viên còn hạn chế về kĩ năng với mục đích quan sát, đánh giá, góp ý để giúp họ cải thiện kĩ năng.
         - Tự bồi dưỡng – rèn kĩ năng
        Tôi thống nhất với quan điểm “Không giống với kiến thức, bạn không thể có được kỹ năng thông qua việc đọc đơn thuần. Khi tập đi xe đạp, nếu chỉ đọc tài liệu, đọc những hướng dẫn về thao tác thì mãi vẫn không thể đi được xe. Muốn tăng kiến thức, bạn cần đọc. Muốn tăng kỹ năng, bạn cần rèn luyện"  (Kĩ năng “Rèn kĩ năng” TS Phan Quốc Việt- http://chúng ta. com ngày 7/5/2010). Công việc này giáo viên tự thực hiện thông qua sổ bồi dưỡng chuyên môn hàng năm và sổ dự giờ, thăm lớp – Có kiểm tra đinh kì của các tổ bộ môn. 
        - Cần phối hợp tốt giữa Kĩ năng giảng dạy và kinh nghiệm giảng dạy: Kinh nghiệm là đáng quí nhưng không đủ, đặc biệt trong thời đại mà lượng tri thức, công nghệ thông tin, sự thay đổi trong các yêu cầu của nghề dạy học tăng rất nhanh. Chính vì vậy cần làm cho giáo viên hiểu rõ kinh nghiệm + kĩ năng sẽ giúp mỗi giáo viên làm việc hiệu quả hơn, họ cần phải có ý thức tích cực rèn luyện để thuần thục các kĩ năng trong quá trình dạy học.
        - Để giúp GV Tự bồi dưỡng – rèn kĩ năng hiệu trưởng cần phải:
        + Tạo điều kiện về thời gian.
        + Cung cấp tài liệu, các địa chỉ trang Web để giáo viên tự học.
        + Hiệu trưởng kiểm tra – đánh giá, góp ý thường xuyên. (Bằng năng lực, kinh nghiệm của mình, khả năng quan sát, tổng hợp, so sánh... Hiệu trưởng có thể đánh gía, góp ý với giáo viên của mình về các kĩ năng dạy học của họ)
        + Tổ chức các đợt hội giảng.
        + Liên kết – giao lưu với các trường bạn trong địa bàn và trong khu vực.
        + Mời các chuyên gia thỉnh giảng theo từng chủ đề.
        3. Hiệu trưởng cần quan tâm đến việc đầu tư về vật chất
        Xây dựng, củng cố và tổ chức sử dụng hiệu quả các phòng học bộ môn, các phòng đa năng:
       - Các thiết bị dạy học: Tăng cường đầu tư các thiết bị nghe – nhìn, các bảng tương tác thông minh.
       - Đồ dùng thí nghiệm: Đảm bảo cho giáo viên đủ các đồ dùng thí nghiệm, đặc biệt với các bộ môn Vật Lí, Hoá học, Sinh học để có thể thực hiện đầy đủ các giờ thực hành, tiến hành thuận lợi các thí nghiệm cần thiết. Mua thêm đồ dùng thí nhiệm, đủ các loại hoá chất cho môn Hoá học.
       - Đầu tư hệ thống máy tính, máy chiếu, các phần mềm ứng dụng để GV có thể ứng dụng CNTT và tổ chức tốt việc khai thác thông tin từ Internet. Tăng số lượng trang thiết bị, sách, máy tính tiến tới đủ phục vụ cho dạy và học. Hoàn thành việc xây dựng nhà giáo dục thể chất, nhà Thư viện, tiến tới xây dựng thư viện Điện tử của Nhà trường; Xây dựng trang websai riêng và cập nhật thông tin thường xuyên. 
        - Tăng thu nhập cho giáo viên bằng việc tổ chức tốt các dịch vụ trong nhà trường, tạo điều kiện thời gian hợp lí để giáo viên có thể làm thêm giờ.
        Để giải pháp đầu tư cơ sở vật chất được khả thi, có tính thực tiễn. Với vai trò của nhà quản lí tôi sẽ đồng thời thực hiện:
        + Sử dụng hiệu quả kinh phí đào tạo hàng năm.
        + Huy động sự ủng hộ, đóng góp từ gia đình học sinh, các cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn, với phương châm: Nhà nước và nhân dân cùng làm.
       + Mời các giáo viên chuyên trách về thiết bị thí nghiệm và cử các giáo viên của trường đi tập huấn sử dụng thiết bị dạy học để giáo viên nắm được nguyên lí hoạt động của từng bộ thí nghiệm, các thao tác, cách biểu diễn, tiến hành thí nghiệm, đo kết quả và thấy rõ những sai số thường gặp. Từ đó giáo viên xử lý kết quả thí nghiệm cho phù hợp với thực tiễn.
       + Tổ chức các buổi hội thảo về sử dụng thiết bị dạy học trong các tổ, nhóm chuyên môn – Hiệu trưởng hoặc hiệu phó chuyên môn phụ trách. 
        4. Hiệu trưởng cần xây dựng và triển khai áp dụng một bộ tiêu chí đánh giá kĩ năng dạy học của giáo viên, giúp giáo viên định hình được những việc cần làm để rèn luyện kĩ năng
        Tôi đã xây dựng và dự định triển khai thực hiện một bộ tiêu chí đánh giá các kĩ năng dạy học. Dựa vào các tiêu chí xây dựng bảng chấm điểm để từ đó có thể đánh giá xếp loại đối với giáo viên qua từng giờ giảng, hoặc để giáo viên tự đánh gía mức độ thực hiện các kĩ năng của họ, tự rút ra những thay đổi cần thiết. Việc này hoàn toàn có thể áp dụng được trong trường học. 
      ( Một số tiêu chí phần phụ lục)
        5. Hiệu trưởng cần tạo ra môi trường làm việc tốt, quan tâm đến cơ chế đánh giá, cơ chế động viên thúc đẩy; khen thưởng, phê bình kịp thời
        Một số giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy cho rằng “Xây dựng môi trường làm việc tốt để mỗi giáo viên đều phấn khởi, nhiệt tình, có trách nhiệm với công việc của mình; họ có niềm vui, có sự say mê hứng thú trong công việc. Có chế độ động viên khen thưởng kịp thời, khen thưởng, khuyến khích kịp thời của hiệu trưởng là một nhân tố giúp giáo viên cố gắng hơn trong việc thực hiện tốt các kĩ năng giảng dạy”
        Việc đánh giá thành tích đúng đắn, là nhu cầu của người lao động và cũng là động lực để họ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, bất cứ nhân viên nào cũng mong muốn có được sự phản hồi đều đặn về công việc họ đang thực hiện và có được sự ghi nhận của cấp quản lí về những việc họ đã làm nhất là những việc họ cảm thấy đã cố gắng làm tốt, “ một sự phản hồi tích cực có thể sử dụng để họ phát triển xa hơn khả năng của họ” (Bush and Middlewood 2004,p180). Tôi nhất trí với miêu tả của Robertson (2001)( From Bush and Middlewood 2004,p182) “ làm thế nào để cho những thành tích đánh giá thực sự của giáo viên phản ánh rõ ràng nhất về thực tế những vấn đề tồn tại trong trường học”. Việc đánh giá thành tích gắn với việc khen thưởng, trả lương là rất quan trọng, tạo tâm lí thoả mãn cho người lao động “ sẽ là không công bằng và làm nản lòng cho những giáo viên làm việc có hiệu quả trong lĩnh vực giáo dục khi mà họ thấy những giáo viên khác có thành tích kém hơn họ nhưng lại nhận được sự thanh toán như nhau”.
          Cần có cơ chế tạo động lực cho giáo viên: Chính lòng yêu nghề của họ là động lực chính khiến họ mong muốn luôn luôn cải thiện và hoàn thiện kỹ năng giảng dạy và mang đến những bài học có chất lượng. Môi trường làm việc tốt, thu nhập đảm bảo cho cuộc sống chính là nền tảng để giáo viên yêu nghề, gắn bó, say mê với nghề nghiệp. 
Hiệu trưởng cần xây dựng cơ chế khen thưởng bằng cả tinh thần và vật chất kịp thời, tham mưu với chính phủ có chế độ ưu tiên đãi ngộ đối với giáo viên; vận dụng mọi nguồn tài chính từ các nguồn tài trợ, từ cha mẹ học sinh để đảm bảo đời sống, thu nhập cho giáo viên; tạo ra được động lực bên ngoài, thúc đẩy những động lực trên trong của giáo viên để họ cố gắng hoàn thành tốt công việc.
         Tính khả thi của giải pháp:
Chính vì vậy cần có cơ chế đánh giá kĩ năng dạy học của giáo viên dựa trên những tiêu chí được cụ thể bằng tính điểm để tạo nên sự công bằng trong đánh giá xếp loại .
       - Mỗi học kì mỗi giáo viên được tổ chuyên môn, Hiệu trưởng kiểm tra đánh giá về thực hiện kĩ năng ít nhất một lần.
       - Có sự tổng hợp xếp loại công khai trong từng bộ môn, trong toàn trường để giáo viên có động lực phấn đấu. Người Việt Nam, đặc biệt là thầy cô giáo rất trọng danh dự, rất tự trọng.Sự công khai sẽ giúp họ thấy rõ họ đang ở đâu trên thang điểm xếp hạng, họ sẽ phấn khởi hơn khi biết mình đã làm tốt – đó là động lực; nếu làm chưa tốt họ cũng cần nhận thức được mình cần pải cố gắng- đó cũng là động lực.
       Từ kết quả đánh giá có sự khen thưởng cả về vật chất và tinh thần đối với những cá nhân có nhiều cố gắng, có sự cải thiện nhanh chóng về kĩ năng dạy học; có hình thức phê bình đối với những giáo viên thiếu tích cực, không có sự chuyển biến.
        6. Hiệu trưởng là người đi đầu trong việc rèn luyện kĩ năng
        Hiệu trưởng cần phải là người có năng lực chuyên môn đồng thời là người đi đầu, tích cực trong việc bồi dưỡng chuyên môn. Do đặc thù công việc của mình, hiện nay các hiệu trưởng thường rất hạn chế số giờ dạy trên lớp. Tuy nhiên tôi nghĩ để có thể giúp giáo viên nhanh chóng cải thiện, nâng cao các kĩ năng dạy học thì chính hiệu trưởng phải là người đi đầu trong việc rèn luyện các kĩ năng; thực tế thì hiện nay một số hiệu trưởng cũng rất kém về một số kĩ năng cơ bản: Kĩ năng nói, kĩ năng đạt vấn đề, truyền đạt vấn đề, kĩ năng ứng dụng CNTT…
Nên có các cuộc vận động, các khẩu hiệu để hiệu trưởng các trường không đứng bên ngoài nhìn giáo viên rèn luyện kĩ năng mà bản thân các hiệu trưởng phải vào cuộc tích cực học tập, rèn luyện và bổ xung các kĩ năng khi đó:
        - Hiệu trưởng dễ dàng nắm bắt, đánh giá kĩ năng dạy học của từng nhà giáo trong trường, thuận lợi cho công việc quản lí, việc phân công công việc của nhà trường.
        - Hiệu trưởng hiểu được, đồng cảm và cảm thông cho những khó khăn của nhà giáo khi rèn kĩ năng. Từ đó có những tháo gỡ kịp thời, đúng mực, khích lệ sự phấn đấu cảu các nhà giáo.
        - Sự gương mẫu, học tập của Hiệu trưởng là động lực giúp giáo viên thấy rõ vai trò của việc rèn luyện kĩ năng. Giúp họ tự tin, có chí hướng cao trong công cuộc đổi mới.
        - Hiệu trưởng dễ dàng nhận ra các thiếu sót căn bản về kĩ năng dạy học của giáo viên để có những phương hướng và biện pháp kịp thời.
        - Hiệu trưởng có thể phát động các phong trào, các đợt thi đua trong giảng dạy – Thực chất là công việc kiểm tra, đánh giá và trao đổi về kĩ năng dạy học.


KẾT LUẬN CHUNG

         Năng lực dạy học của giáo viên được hình thành từ các yếu tố chủ yếu: Kiến thức bộ môn, phương pháp giảng dạy và kĩ năng sư phạm. Kĩ năng dạy học là một phần quan trọng trong cấu trúc năng lực sư phạm của người giáo viên. Để cải thiện chất lượng đội ngũ, nâng cao năng lực sư phạm của giáo viên là một quá trình tổng thể, đề cập tới rất nhiều vấn đề: Kiến thức, phương pháp, kĩ năng, tài chính, phương tiện, thái độ, trách nhiệm, tổ chức, quản lí…Trong phạmvi bài viết này tôi chỉ hy vọng những kết quả nghiên cứu, những giải pháp đề xuất sẽ giúp giáo viên, CBQL các nhà trường có cơ sở để vận dụng trong công việc, góp phần cải thiện nâng cao kĩ năng dạy học của giáo viên trong trường từ đó có thể làm thay đổi chất lượng dạy học. 
Vĩnh Phúc, tháng 1 năm 2012

        Phụ lục : Một số tiêu chí cơ bản Đánh giá kĩ năng dạy học
        1.Tiêu chí của nhóm kĩ năng giảng dạy
        a- Kỹ thuật trình bày bảng như một phương tiện thể hiện ngôn ngữ viết trên lớp
       * Những tiêu chí về kỹ năng viết bảng lớp:
Tiêu chí 1: Viết cỡ chữ đủ lớn và đủ đậm nét để mọi sinh viên đều nhìn thấy rõ.
Tiêu chí 2: Hạn chế tối đa không gian che khuất tầm nhìn của học sinh .( Đứng nghiêng và hơi né để tránh che khuất tầm nhìn của học sinh, tránh tối đa đi ngang qua bảng từ phải qua trái).
Tiêu chí 3: Không nói, hỏi hoặc giải thích trong lúc quay mặt vào bảng để viết.( Vì đó là thói quen hành vi không tốt cho cả giáo viên và học sinh: gây nhiễu cho quá trình tri giác và ghi chép của học sinh, thiếu vệ sinh đối với giáo viên, thông tin trong lời nói có thể không khớp với thông tin đang viết hoặc lặp lại vô ích).
Tiêu chí 4: Có thể chia bảng thành hai bảng nhỏ hơn để sử dụng.
Tiêu chí 5: Tạo ra sự ngăn nắp, gọn gàng, chặt chẽ của tài liệu.
Tiêu chí 6: Viết tắt phải đúng chuẩn và rất hạn chế.
Tiêu chí 7: Tạo ra nét chữ nghiêm túc, chân phương.
        b- Những tiêu chí của kỹ năng truyền đạt:
Tiêu chí 1: Ngôn ngữ khoa học tương ứng, nắm vững nội dung và biểu đạt phong phú.
Tiêu chí 2: Phát âm rõ ràng, chính xác, tốc độ vừa phải ( theo độ khó của tài liệu học tập), tần suất âm thanh vừa phải.
Tiêu chí 3: Ngôn ngữ có tính thuyết phục cao ( được thực hiện bằng sự giải thích, mô tả, so sánh, chứng minh bằng các ví dụ, các luận cứ khoa học). Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, thiện cảm, giàu hình ảnh.
        c- Tiêu chí kỹ năng sử dụng câu hỏi
Tiêu chí 1: Câu hỏi phải trọng tâm, chủ đạo.
Câu hỏi trọng tâm, chủ đạo giúp ta định hướng, xác định những vấn đề trọng tâm cụ thể, rõ ràng. Khi giải đáp được câu hỏi này là giải quyết được vấn đề cơ bản cần dạy, cần học sinh tiếp thu, cần học sinh hiểu, nắm được bản chất của vấn đề. Mục tiêu của bài học, của một đơn vị tri thức cần đạt chứa đựng trong câu hỏi trọng tâm, chủ đạo đó.
Tiêu chí 2:
Có hệ thống câu hỏi giúp giải quyết từng phần cho câu hỏi trọng tâm. Đồng thời câu hỏi phải làm rõ vai trò, chức năng của các thuật ngữ, các đối tượng, các mối quan hệ.
Câu hỏi trọng tâm như một kiến thức chủ chốt, bao trùm một đối tượng, một vấn đề cần tìm hiểu. Để hiểu nó, phải tìm hiểu các vấn đề xung quanh tạo nên nó, liên quan đến nó. Đó chính là lý do tại sao phải có các câu hỏi phụ, các hệ thống câu hỏi giúp ta giải quyết dần vấn đề trọng tâm.
Tiêu chí 3: Các câu hỏi phải tương ứng với các cấp độ nhận thức từ thấp đến cao và hỗ trợ nhau trong mỗi bài dạy.
Tiêu chí 4: Mỗi phương pháp dạy học có cách tiếp cận vấn đề khác nhau, nên phải có một hệ thống câu hỏi khác nhau.
Tiêu chí 5: Câu hỏi phải vừa sức, phù hợp với đối tượng học sinh, đồng thời tạo điều kiện cho học sinh hoạt động độc lập, hoặc theo cặp, hoặc theo nhóm; tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá lẫn nhau, kết hợp đánh giá của thầy và đánh giá của trò.
        d-Kỹ năng tổ chức nhóm.
* Tiêu chí kỹ năng tổ chức nhóm
Yêu cầu 1: Kỹ năng chỉ rõ trách nhiệm của nhóm.
Tiêu chí 1: Giáo viên giúp cho mỗi thành viên trong nhóm có trách nhiệm cùng mọi người đạt mục đích đề ra.
Tiêu chí 2: Giáo viên hình thành cho học sinh kỹ năng xác định mục đích chung của nhóm; xác định được quyền hạn, vai trò, lợi ích của nhóm và cá nhân và mối quan hệ giữa các yếu tố này.
Yêu cầu 2: Giáo viên phân công và giải thích các quy định rõ ràng.
Tiêu chí 1: Kỹ năng chọn trưởng nhóm: Phải có các tố chất; am hiểu các vấn đề trong những nét cơ bản và khái quát; Biết tâm lý nhóm và điều động nhóm có khoa học; Xác định được tiềm năng của nhóm, khơi dậy được tiềm năng đó; Dân chủ.
Tiêu chí 2: Kỹ năng tổ chức các thành viên trong nhóm: Chuẩn bị trước đề cương, thu thập dữ kiện; Đúng giờ, lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác; Có kỷ luật, tự chủ trong phát biểu.
Tiêu chí 3: Kỹ năng chọn thư ký: Người viết mạch lạc, chữ viết dễ đọc, biết tóm tắt ý của người khác, đúng văn phong.
Yêu cầu 3: Kỹ năng giải quyết sự không nhất trí đối với một vấn đề.
Yêu cầu 4: Kỹ năng thống nhất được các mục tiêu cần đạt; Thống nhất về các nguyên tắc sử dụng trong quá trình làm việc; Sử dụng các hình thức thích hợp cho các vấn đề cần giải quyết; Tạo không khí thân thiện, cởi mở và tin cậy.
Yêu cầu 5: Kỹ năng lắng nghe và quản lý.
        e- Tiêu chí kỹ năng sử dụng phương tiện trong dạy học trên lớp:
Tiêu chí 1: Sử dụng được các thiết bị dạy học theo quy định trong danh mục tối thiểu đối với lớp được phân công giảng dạy.
Tiêu chí 2: Sử dụng phương tiện dạy học phù hợp với mục đích, nội dung, phương pháp của từng môn học, từng tiết học, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi cũng như điều kiện hiện có của nhà trường.
Tiêu chí 3: Sử dụng phương tiện dạy học phải đúng lúc
Tiêu chí 4: Sử dụng phương tiện dạy học phải đúng chỗ.
Tiêu chí 5: Sử dụng phương tiện đủ cường độ. ( Thời gian sử dụng trong mỗi tiết, mỗi phần phải phù hợp).
Tiêu chí 6: Sử dụng sáng tạo các thiết bị dạy học tạo hiệu quả cao.
Tiêu chí 7: Biết sử dụng những phương tiện phù hợp với tính đă của đặc thù của người Việt.
        2. Nhóm kỹ năng giao tiếp ( Kỹ năng ứng sử tính huống)
Tiêu chí 1: Kỹ năng xác định được vấn đề cần giải quyết.
Tiêu chí 2: Kỹ năng huy động tri thức, kinh nghiệm có liên quan đến tính huống cần giải quyết.
Tiêu chí 3: Kỹ năng đưa ra các phương án giải quyết và lựa chọn được phương án tối ưu.
Tiêu chí 4: Kỹ năng kiểm soát được kết quả tình huống và rút ra bài học kinh nghiệm.
       3. Nhóm kỹ năng quản lý lớp học:
        a- Kỹ năng tổ chức lớp
Bất kỳ hoạt động nào trong đó có lao động dạy học học đều bắt đầu từ việc tổ chức những điều kiện mà trong đó nó sẽ diễn ra một cách thuận lợi nhất. Việc tổ chức sơ bộ bài học nhằm đảm bảo hoàn cảnh bên ngoài bình thường đối với công việc và ổn định về mặt tổ chức cho sinh viên.
*Tiêu chí cụ thể:
Tiêu chí 1: Chào học sinh khi vào lớp với tư thế, tác phong, vị trí đứng chào, cách chào… phù hợp.
Tiêu chí 2: Kiểm tra những điều kiện khách quan phục vụ cho việc dạy và học như tình trạng phòng học ( bảng, bàn ghế, ánh sáng, bầu không khí phòng học).
Tiêu chí 3: Kiểm tra tình trạng học sinh ( số học sinh vắng mặt, tình trạng học sinh có mặt, nhanh chóng giải quyết các vướng mắc khi vào bài mới).
Tiêu chí 4: Lôi cuốn, hướng sự chú ý của học sinh vào bài mới.
       b- Kỹ năng bao quát lớp học:
*Tiêu chí cụ thể:
Tiêu chí 1: Quản lý được hành vi và hoạt động của học sinh
Tiêu chí 2: Kích thích được tính tích cực và nhu cầu học tập của người học
Tiêu chí 3: Tổ chức được các dạng tương tác khác nhau
Tiêu chí 4: Duy trì được bầu không khí tích cực
      c- Kỹ năng vào bài, lôi cuốn sự chú ý của học sinh, bằng cách đưa học sinh vào tình huống có vấn đề, bao gồm một số kỹ năng sau:
Tiêu chí 1: Kỹ năng nêu tên mục bài hấp dẫn, vị trí của bài trong chương, trong phần,…
Tiêu chí 2: Nêu mục đích, yêu cầu bài học ngắn gọn, rõ ràng, đầy đủ, chính xác.
Tiêu chí 3: Nêu tóm tắt nội dung công việc và kế hoạch thực hiện, tập trung sự chú ý của học sinh, tạo ra sự hứng thú cho học sinh, chuẩn bị vào bài học mới.
         4- Nhóm kĩ năng Kiểm tra- Đánh giá
         a- Kỹ năng củng cố, hệ thống tóm tắt lại bài học
Tiêu chí 1: Phát vấn, kiểm tra học sinh về những vấn đề trọng tâm của bài học.
Tiêu chí 2: Yêu cầu học sinh làm các bài tập hoặc thực hành những nội dung trọng tâm vừa học.
Tiêu chí 3: Sử dụng mô hình để hệ thống hóa bài học. Có thể dùng phim hoặc lập bảng so sánh, hệ thống hóa, sơ đồ hóa, hoặc sử dụng các dụng cụ trực quan khác để học sinh củng cố những tri thức vừa học đồng thời hình thành cho họ kỹ năng liên hệ bài học thực tế.
Tiêu chí 4: Đặt ra các tình huống, các bài tập để củng cố, khắc sâu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh. Đồng thời tạo ra hứng thú để học sinh tổng kết tóm tắt bài học.
       b- Kỹ năng ra câu hỏi và bài tập về nhà cho học sinh
Ra câu hỏi và bài tập về nhà phải đạt được các yêu cầu:
- Câu hỏi và bài tập có tính chất đòi hỏi học sinh ôn tập, vận dụng những kiến thức, kỹ năng vừa học trên lớp trên cơ sở hiểu nội dung bài học. 
Câu hỏi phải đảm bảo vừa sức đối với các đối tượng học sinh trong lớp. Câu hỏi, bài tập phải nhằm rèn luyện các phương pháp giải, diễn đạt của học sinh cho các dạng khác nhau.
* Kỹ năng này bao gồm một số tiêu chí cụ thể sau:
Tiêu chí 1: Xếp câu hỏi, sắp xếp bài học thành các dạng.
Tiêu chí 2: Ra bài tập từ dễ đến khó, đủ cho các đối tượng học sinh khá, giỏi đến yếu kém, sao cho học sinh nào cũng có thể làm được một vài bài cho đến hết.
Tiêu chí 3: Ra bài tập một cách toàn diện ( đủ các dạng)
Tiêu chí 4: Ra bài tập, đặt câu hỏi bằng nhiều dạng ( câu hỏi trắc nghiệm, câu hỏi tự luận, thực hành theo kiểu truyền thống và hiện đại).
       c- Kỹ năng kiểm tra, đánh giá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh ngay cuối tiết học.
* Tiêu chí cụ thể
Tiêu chí 1: Xác định kiến thức cơ bản, trọng tâm cần kiểm tra, đánh giá.
Tiêu chí 2: Đặt câu hỏi kiểm tra
Tiêu chí 3: Xác định hình thức kiểm tra, đánh giá phù hợp.
Tiêu chí 4: Xác định thời lượng phù hợp cho việc kiểm tra, đánh giá.

 

Ngày 18/01/2012 
Đặng Việt Phú - Trưởng phòng GD&ĐT

THÔNG TIN MỚI